Phan Cẩm Thượng
Đây vốn là hai trường phái hội họa phương Tây đầu thế kỷ 20, có mục đích và ngôn ngữ khác nhau. Một cái lấy tâm trạng nội tâm thay đổi, phá nát những hình thể bên ngoài. Một cái phủ nhận hoàn toàn đối tượng, coi hội họa là vẻ đẹp của ngôn ngữ và cấu trúc thuần túy. Những người đi sau đã nhận thấy những điểm chung của hai trường phái, một cái còn giữ lại hình thể và khả năng biến đổi, một cái tìm tòi tính biểu cảm của ngôn ngữ thuần túy, bèn kết hợp chúng thành hội họa biểu hiện - trừu tượng. Cho dù không hẳn là một trường phái, nhưng hội họa này có khá nhiều họa sỹ tài ba với nhiều tác phẩm và sự gợi ý nghệ thuật. Sự kết hợp đó xẩy ra ở nhiều nơi, nhiều nước, Việt Nam cũng vậy, hội họa Biểu hiện - Trừu tượng có lẽ là một diện mạo căn bản của hội họa những năm 1985-1990 đến nay. Ví dụ Trần Trọng Vũ, Đặng Xuân Hòa, Hà Trí Hiếu, Hoàng Tường,Trần Văn Thảo, Bùi Minh Dũng... hầu hết họ là những họa sỹ trẻ lúc đương thời, coi hội họa là phương tiện đa năng để thể hiện chứ không phải một thứ duy nhất đúng nào đó.
Đặng Xuân Hòa. Con người, bút sắt, 1997
Hội họa Biểu hiện có manh nha từ Van Gogh, khi ông coi từng nhát bút dù là vẽ ánh sáng, cây cỏ cũng là từng bộc bạch của nội tâm, chính nội tâm làm cho bút lực chuyển động, do vậy mà những hình ảnh đang vẽ chẳng qua là nguyên cớ của nội tâm. Hội họa biểu hiện vì thế lấy sự bộc lộ, đối chọi, quăng ra bề mặt bức họa những khát vọng bấy lâu bị dồn nén. Có thể xem điều đó ở họa sỹ người Na Uy E. Munch (1863 - 1944) và sau này là họa sỹ người Đức Beckman (1884 -1950). Không chỉ nội tâm họa sỹ, mà cả tâm trạng xã hội, thời của châu Âu khủng hoảng giữa hai cuộc thế chiến, cũng được thể hiện. Tiếp nhận nghệ thuật biểu hiện, nhưng thực tế các họa sỹ Việt Nam không có nhiều vấn đề như thế, tuy không phải chúng ta không có gì để biểu hiện, mà thực ra sự biểu hiện của ta thiếu một cơ sở triết lý, và các nghệ sỹ thực chất muốn giấu những tình cảm riêng của mình hơn là muốn biểu hiện. Từ đó họ sinh ra một thứ biểu hiện mơ mộng, thầm kín, nói điều này điều kia, nhưng chẳng cụ thể là nói gì. Khi hình thể đã bị phá vỡ, những cảm quan trừu tượng xuất hiện, đó là những phần vô hình vô ảnh, chỉ có các vệt mầu trong bức họa. Nửa như có hình thể, nửa bị dập xóa theo nhưng tâm trạng nhất định tạo ra sự gợi cảm của bức họa, trong những tương phản đối chọi của mầu sắc.
Khi thủ pháp đồng hiện được du nhập, các họa sỹ nhanh chóng nắm lấy các motif của riêng mình, mỗi người có cách vẽ đồ vật, con người theo kiểu riêng và đưa lên tranh tùy theo tâm trạng cụ thể lúc vẽ. Đôi khi bức họa đầy ắp hình thể, đôi khi chỉ có một vài, còn lại là cả không gian bỏ ngỏ với những vệt mầu sắc. Thủ pháp Biểu hiện - Trừu tượng tỏ ra thích hợp, và giúp cho họa sỹ dễ dàng trên con đường sáng tác, đương nhiên đó cũng chỉ là thủ pháp. Ai sâu sắc, quan tâm nhiều đến xã hội nhân luân, lại có sự nhậy cảm trong tay bút thì có sáng tạo sâu sắc hơn. Khi nghệ thuật được quy về vài chiêu thức căn bản thì nó cũng trở nên dễ dãi và thiếu sáng tạo. Sự tiếp nhận đan xen các bút pháp mở ra con đường rộng rãi cho hội họa. Họa sỹ có thể học hỏi nhiều trường phái, không cần câu nệ mà sử dụng tùy từng cái hay,cái phù hợp với mình cho sáng tác. Đây chính là đặc điểm, mà người ta vẫn gọi là, sự ảnh hưởng đa phương và phát triển đa phương của hội họa hiện đại Việt Nam. Ảnh hưởng đa phương tức là tiếp nhận hầu như toàn bộ nghệ thuật Hiện đại (Modern art), từ trường phái Dã thú cho đến Trừu tượng. Các trường phái này đều vào Việt Nam không chính thức, chủ yếu qua sách vở, chứ không hề có họa sỹ hay các tác phẩm thuộc các trường phái đó đến. Sự ảnh hưởng như vậy tự nó đã là gián tiếp và khúc xạ, tính lý thuyết và chân xác không cao. Do vậy mà các họa sỹ trong nước cũng không thể tiếp nhận ảnh hưởng có hệ thống. Ở phương diện ngôn ngữ biểu hiện - trừu tượng tạo ra hiệu quả va đập trực tiếp, mà tính tượng trưng trong nghệ thuật truyền thống không thể có được. Đó là sự biểu hiện của hình thể và mầu sắc, trong quá khứ như là hình thể của Michelangelo (1475 -1564) và mầu sắc của Titian (1477 - 1576), trong đó tự cấu tạo của đường nét tạo ra hình thể biểu cảm các trạng thái nội tâm, tự các hòa sắc biểu cảm các trạng thái tình cảm. Ngôn ngữ biểu hiện - trừu tượng nối liền xúc cảm thị giác với ý tưởng, nối liền cảm quan với bàn tay thể hiện, do đó mà bức tranh mang lại nhiều tính cảm tính tự thân, không cần đến đề tài hay tích chuyện, hoặc nội dung văn học cần viện dẫn.
Tuy nhiên cái mạnh cũng nằm kề cái yếu. Hội họa biểu hiện - trừu tượng mang dấu ấn cá nhân họa sỹ sâu sắc, cũng như sự chủ quan cực đoan, cái đẹp một mình dễ làm họa sỹ sa đà vào sự trình diễn sắc mầu thuần túy và nội tâm hạn hẹp. Việc môtif hóa quá trình sáng tác là một hạn chế khác, làm cho những bức họa trong loạt sáng tác dễ lặp đi lặp lại, và chỉ thay đổi bề mặt chút ít. Sự thương mại hóa trong thời gian qua, khi thị trường nghệ thuật phát triển, góp phần đánh quỵ hội họa một lần nữa, khi sự đói nghèo qua đi, khi các họa gia trở thành tầng lớp trưởng giả mới./.
2007