Nội san

Cải cách văn hóa

03 Tháng Tám 2012

Nguyễn Trần Bạt

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

 

Thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới. Toàn cầu hóa đã len lỏi vào ngay cả những phần nhỏ bé nhất của thế giới, không chỉ làm trỗi dậy những khát vọng về sự phát triển mà còn tạo ra trạng thái phát triển thực thụ.

Tuy nhiên, ở một số vùng trên thế giới, con người, dường như, chưa khai thác được những lợi ích mà toàn cầu hóa mang lại, thậm chí còn nhận thức một cách phiến diện về nó như là thủ phạm gây ra những xung đột về kinh tế, chính trị và văn hoá. Có thể nói, trong số những cuộc xung đột ấy, những xung đột về văn hóa tuy không phải luôn hữu hình và quyết liệt, nhưng âm thầm, bền bỉ, dai dẳng và có sức cản rất lớn đối với tiến trình phát triển chung của nhân loại. Do đó, nghiên cứu về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với tiến trình phát triển chung của nhân loại và đối với sự tiến bộ của thế giới thứ ba có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi nó sẽ giúp con người hạn chế khả năng xảy ra xung đột, trên cơ sở đó, khai thác những ảnh hưởng tích cực của văn hóa đối với tiến trình phát triển.

Thế giới thứ ba đã từng sục sôi trong phong trào giải phóng các dân tộc, nhưng trên thực tế nhiều dân tộc mới được giải phóng về mặt nhà nước chứ chưa giải phóng về mặt con người. Sự không phát triển về mặt con người không chỉ thể hiện ở sự lạc hậu về chính trị, kinh tế mà còn cả môi trường văn hoá. Nếu văn hóa chưa được giải phóng, tức là vẫn tồn tại nền văn hóa không thích ứng với sự phát triển thì dân tộc đó vẫn là nô lệ của chính họ. Việt Nam cũng như nhiều nước Thế giới thứ ba chưa có một nền văn hóa thích ứng với sự phát triển.

Để phát triển, quan điểm của chúng tôi là phải trả lại tự do cho sự phát triển tự nhiên đời sống xã hội và bắt đầu từ phát triển văn hóa để phát triển con người, giải phóng con người, giải phóng dân tộc ra khỏi các định kiến để mỗi con người có thể tiếp cận một cách tự do với tất cả những gì là tiên tiến của nền văn hóa toàn cầu, nền văn hóa của phát triển. Đó chính là nội dung quan trọng nhất của đường lối phát triển của thế giới thứ ba. Tuy nhiên, trước hết, chúng ta sẽ nhìn lại nền văn hóa của thế giới thứ ba với những nét đặc trưng nhất để thấy nó đã và đang kìm hãm sự vươn tới sự tiến bộ của khu vực này như thế nào.

 

Sự lạc hậu về văn hóa của thế giới thứ ba

Thế giới thứ ba lạc hậu về mặt văn hóa là một kết luận không thể phủ nhận. Đó là những nền văn hóa cát cứ, khép kín, một số còn tự mãn. Sự lạc hậu về mặt văn hóa ru ngủ xã hội bằng quá khứ và bằng sự an phận với hiện tại. Con người không có tự do về mặt văn hoá, do đó không có năng lực đòi hỏi sự phát triển và tiến bộ. Nói cách khác, sự lạc hậu về mặt văn hoá, sự phi tự do về mặt văn hóa làm cho cuộc sống không có những năng lực đòi hỏi các mức độ khác nhau của các cuộc cải cách.

Nói về sự lạc hậu của văn hóa ở thế giới thứ ba không thể không nói đến hiện tượng níu kéo, gìn giữ cái gọi là bản sắc dân tộc. Nhiều người lo sợ sự giao lưu về văn hóa sẽ làm biến mất các giá trị văn hóa truyền thống. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Phải hiểu rằng, bản sắc tự nó là một đối tượng khách quan, con người không thể cố ý tạo nên nó, cũng như không thể cố ý làm mất nó. Nếu để cho bản sắc hình thành một cách tự nhiên qua các giai đoạn lịch sử thì con người sẽ có một bản sắc rất tự nhiên. Nền văn hóa đó giúp con người hòa hợp với nhau và với chính mình. Thế nhưng, với những cố gắng làm cho cộng đồng của mình có vẻ có bản sắc, tức là xây dựng bản sắc một cách chủ quan, thế giới thứ ba ngày càng khép kín về văn hoá, và trở thành những cộng đồng vừa tự mãn vừa dị biệt. Các nước thế giới thứ ba dường như vẫn sử dụng các yếu tố văn hóa như những công cụ nhằm củng cố và làm nền tâm lý xã hội cho cái gọi là ổn định chính trị; và chính việc sử dụng tùy tiện các yếu tố văn hóa như vậy đã tạo ra một trạng thái lẫn lộn, trạng thái không kiểm soát được và ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình phát triển của đời sống xã hội.

Hơn nữa, nền văn hóa lạc hậu làm méo mó năng lực nhận thức tự nhiên của con người, làm thui chột năng lực phát triển của con người. Đến lượt mình, những năng lực yếu kém của con người lại góp phần làm suy thoái các giá trị tự nhiên, động lực tự nhiên của văn hoá. Sự tác động đó thể hiện thông qua sự cường điệu các giá trị và bản sắc văn hoá. Điều này, một mặt thể hiện thái độ thiếu khiêm tốn và thiếu khoa học với văn hoá, mặt khác thể hiện sự thiếu tự tin hay sự tự ti của con người. Con người trước hết cần phải yêu chính mình, yêu hiện tại và tương lai của mình, quá khứ chỉ là phương tiện hỗ trợ. Nếu cố làm cho con người tin rằng mọi cái có giá trị đều ở quá khứ thì đó là sự tận dụng quá khứ, tận dụng lịch sử như động cơ nhằm tạo ra niềm tự hào dân tộc giả tạo. Đó là một sai lầm khủng khiếp, thậm chí một tội ác và chính nó ngăn cản toàn bộ tiến trình phát triển của các dân tộc.

Về khía cạnh thứ hai, khi con người thiếu tự tin thì họ buộc phải che đậy và vụng về triển lãm những cái riêng của mình để phân biệt với cái dị biệt. Thái độ xem các dị biệt là quan trọng gây chia rẽ và không phục vụ quá trình hội nhập và phát triển. Thế giới thứ ba cần phải hiểu rằng, bản sắc cũng như văn hóa là một hiện tượng khách quan tồn tại bên ngoài ý muốn của con người. Bản sắc của người châu á hay người châu Âu, của người phát triển hay người không phát triển đều cao quý như nhau bởi vì chúng đều thuộc về con người. Thừa nhận con người và các quyền con người như những yếu tố văn hóa của đời sống sẽ giúp giải quyết vấn đề tâm lý rất nhẹ nhàng. Sức mạnh của các quốc gia phát triển chính là nằm ở chỗ đó. Họ không phân biệt cái gì khích lệ năng lực đóng góp cho sự phát triển trong mỗi một con người. Cần phải giải phóng con người ra khỏi những định kiến, trong đó định kiến dân tộc là một định kiến phổ biến. Không cường điệu hóa các bản sắc chính là giải phóng con người ra khỏi các định kiến. Văn hóa ngoài ý nghĩa tích cực là các giá trị còn có các giá trị tiêu cực là các định kiến. Thế giới thứ ba buộc phải thức tỉnh về sự cần thiết phải biến văn hóa trở thành yếu tố quan trọng xúc tiến tiến trình phát triển, nếu không nó sẽ trở thành chỗ dựa về mặt tinh thần cho sự lạc hậu về chính trị và kinh tế, và kìm hãm năng lực phát triển của dân tộc.

 

Nền văn hóa phi tự nhiên hay sai lầm chính trị của thế giới thứ ba

Văn hoá, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng đồng, một dân tộc, do đó văn hóa chính là cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Quá trình hình thành văn hóa là một quá trình tự nhiên và khách quan. Chất xúc tác cho quá trình hình thành của văn hóa không gì khác chính là tự do. Vì nếu không có tự do thì đời sống tinh thần của con người không phát triển; đời sống tinh thần của con người không phát triển thì không có đời sống văn hóa lành mạnh. Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa một nền văn hóa lành mạnh và một nền văn hóa không lành mạnh.

Chúng ta đều biết rằng, bản chất của cuộc sống chính là tính đa dạng tự nhiên và tự do là điều kiện quan trọng nhất để không chỉ đảm bảo mà còn phát huy tính đa dạng ấy. Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh hướng của cuộc sống và sau khi trải qua quá trình sàng lọc một cách tự nhiên, những khuynh hướng còn lại là những khuynh hướng hợp lý. Nếu con người áp đặt một khuynh hướng nào đó một cách tuyệt đối thì có nghĩa là đã tiêu diệt sự cạnh tranh giữa các khuynh hướng, cũng tức là tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống. Như vậy, một nền văn hóa lành mạnh là một nền văn hóa hình thành và phát triển một cách tự nhiên từ bản chất đa dạng của cuộc sống. Ngược lại, một nền văn hóa không lành mạnh là nền văn hóa mà ở đấy người ta sử dụng công cụ nhà nước để áp đặt các giá trị.

Mặt khác, văn hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và chấp nhận sự bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống; nói cách khác, nếu không có sự chấp nhận lẫn nhau và bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống thì không có văn hóa lành mạnh. Trong quá trình đi đến sự chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự đấu tranh bình đẳng của các thành tố và do đó, văn hóa phản ánh cả tính xung đột và tính hòa hợp. Yếu tố đảm bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh và hòa hợp giữa các yếu tố của cuộc sống không gì khác chính là tự do. Tự do đem lại cho con người sự phong phú về nhận thức và đến lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ tạo ra đa dạng về khuynh hướng. Khi đó, trong một môi trường có sự bình đẳng giữa các khuynh hướng, con người được tự do nhận thức và đi đến thỏa thuận. Hơn nữa, hết thảy những gì đẹp đẽ đều được sáng tạo khi con người tự do hay khi con người đạt đến trạng thái tự do; và chính những đóng góp đẹp đẽ đó của con người đã tạo ra nền văn hóa lành mạnh với tư cách là sản phẩm của tự do.

Như vậy, rõ ràng ở đâu nền văn hóa có tính đa dạng, ở đâu mà sự tồn tại của các khuynh hướng của cuộc sống được tôn trọng thì ở đó có tự do và khi đó văn hóa là hệ quả của tự do. Văn hóa ấy hỗ trợ cuộc sống và chính là môi trường tinh thần của tất cả những gì còn lại của cuộc sống.

Một nền văn hóa hình thành tự nhiên, đảm bảo tính đa dạng tự nhiên luôn luôn là lý tưởng, nhưng trên thực tế không phải là không có những sự can thiệp, áp đặt của con người đối với văn hoá. Sự can thiệp đó, trên bất cứ khía cạnh nào, cùng làm cho sự đa dạng tự nhiên của đời sống bị đơn giản hoá, thậm chí tới mức phi lý. Khi con người bị áp đặt về nhận thức thì con người sẽ phản ánh một cách đơn giản về cuộc sống. Sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của con người bằng cả hành vi lẫn tư duy, đến lượt mình, tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa hay tạo ra một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên. Đó là những mô tả về một nền văn hóa phi tự nhiên hay nền văn hóa bị chính trị hóa.

Xin hãy lùi về lịch sử để thấy tính không chừng mực của con người khi ứng xử với văn hoá. Có thời, người ta sử dụng văn hóa như một công cụ chính trị, họ tước bỏ yếu tố tự do trong văn hóa và thao túng nó cho những mục đích chính trị. Vì hơn ai hết, các nhà chính trị đều hiểu rõ rằng, văn hóa là công cụ điều chỉnh trên phạm vi rộng lớn nhất, tinh tế và mạnh mẽ nhất đối với nhận thức và ứng xử của con người. Chính vì vậy, họ luôn có tham vọng thao túng về mặt văn hóa để trên cơ sở đó, tạo ra tính ổn định trong hoạt động cầm quyền của mình. Tham vọng đó, thực ra, cũng có thể hiểu được vì đảng chính trị nào cũng tuyên truyền, phổ biến nhận thức chính trị của mình vào trong đời sống. Sự tuyên truyền trong trường hợp như vậy không phải là không lành mạnh vì nó là đương nhiên. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể đi theo, cổ vũ hay ưu tiên một khuynh hướng chứ không thể dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất bằng việc phủ nhận các khuynh hướng khác. Vì việc dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất sẽ làm biến mất tính đa khuynh hướng, hay tính đa dạng tự nhiên của văn hoá, mà xét về bản chất, chính là tiêu diệt tính đa dạng của đời sống tinh thần của con người.

Thực ra, con người không thể tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống hay nói đúng hơn là nếu tính đa dạng của cuộc sống bị tiêu diệt thì bản thân cuộc sống cũng không tồn tại nữa hay là cuộc sống đã chết về mặt tinh thần. Do đó, nếu trong khi cuộc sống vẫn đa dạng, dẫu là sự đa dạng một cách bất hợp pháp, mà nền văn hóa không phản ánh được điều đó thì bản thân nền văn hóa đó không có giá trị. Giá trị của một nền văn hóa phi tự nhiên, nếu có chăng, thì chính là nó với tư cách là bằng chứng của việc chính trị đã bóp méo văn hoá.

 

Những khuyết tật của nền văn hóa phi tự nhiên

Nói về một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên không thể không nhắc đến những khuyết tật của nó. Trước hết, một nền văn hóa méo mó biến con người trở nên đơn giản, đơn giản tới mức hết thảy mọi người đều giống nhau một cách phi lý vì phải tuân theo một khuôn mẫu định sẵn. Sự phong phú trong nhận thức của con người chính là vũ khí quan trọng nhất giúp con người ứng phó với cuộc sống. Khi những người cầm quyền, bằng sức mạnh chính trị của mình, cố gắng tiêu diệt tính đa dạng của văn hoá, họ đã không hiểu rằng chính họ đang tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống, mà tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống chính là làm cho con người "chết" ngay cả khi họ đang sống.

Nền văn hóa phi tự nhiên còn biến con người trở nên cực đoan, cực đoan tới mức trở thành nô lệ về mặt tinh thần cho một người hay một khuynh hướng nào đó. Xin được nhấn mạnh rằng, biến con người trở thành nô lệ, dẫu chỉ là nô lệ về mặt tinh thần, chính là huỷ hoại tính Người trong một Con Người. Cần phải ý thức được rằng, con người cần có tự do khi nhận thức, con người cần cả tự do khi lựa chọn, thậm chí, thay đổi khuynh hướng mình đã lựa chọn, bởi đó chính là biểu hiện quan trọng nhất của Tự do, cũng chính là biểu hiện quan trọng nhất của một Con Người.

Một khuyết tật nữa của một nền văn hóa phi tự nhiên là nó tiêu diệt tính cá nhân trong con người bằng việc buộc con người phải tôn sùng chủ nghĩa tập thể một cách tuyệt đối. Đó là sự can thiệp phi tự nhiên. Con người, trước hết, phải là một cá nhân và sự liên kết giữa những cá nhân mới tạo ra chủ nghĩa tập thể. Không thể có cái gọi là chủ nghĩa tập thể trong khi hết thảy những thành tố tạo ra nó đều không phải các cá nhân hoàn chỉnh. Nếu không, cái chúng ta có sẽ không phải là một chủ nghĩa tập thể chân chính mà là một chủ nghĩa tập thể ngụy biện, thậm chí là một chủ nghĩa tập thể của những sinh vật tiền con người.

Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận rằng, khuyết tật căn bản nhất của một nền văn hóa phi tự nhiên là tính đơn giản. Người ta đã lầm tưởng rằng, tính đơn giản đó có thể tạo ra tính ổn định trong nhận thức của con người và do đó, tạo ra tính ổn định cho hoạt động cầm quyền mà không nhận ra rằng, tính đơn giản đó đã làm chết cả một nền văn hoá, "nhổ rễ" cả một dân tộc ra khỏi “mảnh đất tinh thần” của nó và làm cho những dân tộc sở hữu những nền văn hóa phi tự nhiên đó trở thành những kẻ vất vưởng về mặt tinh thần. Nhưng, với tư cách là sản phẩm của cuộc sống, văn hóa mang trong mình một sức sống mãnh liệt, mãnh liệt đến mức không một tham vọng chính trị nào có thể tiêu diệt được. Chính vì vậy, khi tình hình thay đổi, các yếu tố văn hóa bị đè bẹp sẽ trỗi dậy và quay trở lại cuộc sống. Hiện nay, nó đang quay trở lại một cách mạnh mẽ với tất cả sự quá tải của nó; đó cũng chính là bằng chứng về sức sống tự nhiên, bền bỉ của văn hoá. Điều đó chứng tỏ, không thể và không bao giờ có cái chết của một nền văn hoá, mà chỉ có cái chết của một dân tộc về văn hóa hay về tinh thần nếu chính trị tiếp tục can thiệp vào quá trình hình thành và phát triển tự nhiên của văn hoá.

 

Hệ thống pháp luật phi tự nhiên - Hệ quả của nền văn hóa phi tự nhiên

Văn hóa chính là cuộc sống; do đó, khi làm biến dạng văn hoá, những người cầm quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống. Hệ thống pháp luật, để có thể điều chỉnh được cuộc sống, cũng bị biến dạng theo; nói cách khác, để tương thích với một cuộc sống đã bị biến dạng thì chính pháp luật cũng trở nên méo mó và sự méo mó đáng sợ nhất của pháp luật chính là sự không thừa nhận quyền sở hữu của con người.

Chúng ta đều biết rằng, sở hữu là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của một xã hội văn minh, sở hữu cũng là quyền con người căn bản nhất. ở những nơi mà văn hóa bị thao túng, người ta không thừa nhận sở hữu tư nhân với hy vọng sẽ biến con người trở nên cao quý hơn vì không còn những tham vọng vật chất. Nhưng, họ đã lầm; họ đã không nhận ra rằng, loại bỏ sở hữu tư nhân chính là một trong những hành vi phá hoại mạnh nhất đời sống văn hóa của con người và rằng, khi tiêu diệt quyền sở hữu hay ý thức sở hữu của con người đối với những vật cụ thể thì người ta đã đồng thời tiêu diệt cả ý thức sở hữu của con người đối với những tài sản tinh thần mà pháp luật là một trong số đó. Con người không cảm thấy mình là chủ sở hữu của pháp luật; con người ứng xử một cách thiếu chừng mực với pháp luật và dần dần, con người chà đạp lên cả những tài sản tinh thần của mình. ở những nơi này, tham nhũng, dưới nhiều hình thức, tồn tại ngang nhiên và có xu hướng ngày càng tinh vi hơn. Đó chính là kết quả tất yếu của việc không thừa nhận sở hữu tư nhân. Từ trước đến nay, người ta vẫn cho rằng, tham nhũng là sự suy đồi về đạo đức, nhưng theo chúng tôi, nếu coi tham nhũng như là biểu hiện của sự suy đồi về đạo đức thì tức là chúng ta đang đơn giản hóa tham nhũng, và nếu tiếp tục với nhận thức như vậy thì chúng ta không thể khắc phục được tình trạng lan tràn của tham nhũng.

Hơn nữa, như đã phân tích trong phần trước, khuyết tật quan trọng nhất của nền văn hóa phi tự nhiên là tính đơn giản; chính nó đã tiêu diệt sự đa dạng của đời sống. Chính trong môi trường như vậy, cái chết về mặt tinh thần của con người đã tạo cơ hội cho sự lộng hành của một khuynh hướng đã được nhà cầm quyền lựa chọn, thậm chí, còn tạo ra văn hóa lộng hành. Sống trong môi trường đơn khuynh hướng ấy, một số người tưởng rằng mình đang hít thở bầu không khí tự do mà không nhận ra rằng, mình đang là nạn nhân của sự lộng hành, nạn nhân của sự độc quyền lẽ phải hay độc quyền chân lý. Một trong những công cụ mà các nhà cầm quyền dùng để tăng cường kiểm soát con người trong môi trường ấy chính là luật pháp. Chỉ có những hệ thống pháp luật méo mó mới bảo đảm cơ sở tồn tại hợp pháp của sự lộng hành; cũng chỉ có những hệ thống pháp luật méo mó mới bảo trợ cho những hành vi tham nhũng tinh thần. Những hệ thống pháp luật như vậy, do bị cấy những yếu tố không có khả năng biến thành văn hóa, nên không chỉ tự mâu thuẫn với nhau mà còn mâu thuẫn với quá khứ và mâu thuẫn với năng lực thực hiện của xã hội.

Những phân tích trên cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa đến pháp luật. Tuy nhiên, sẽ là rất phiến diện nếu chúng ta không phân tích ảnh hưởng ngược lại của pháp luật đối với văn hoá. Với tư cách là công cụ điều chỉnh hành vi của con người, một hệ thống pháp luật méo mó sẽ tạo ra những hành vi méo mó. Tư duy cũng là một loại hành vi, do đó, hệ thống pháp luật méo mó còn tạo ra cả những tư duy méo mó. Với thời gian, những hành vi và tư duy méo mó đó trở thành những thói quen méo mó và củng cố thêm cho nền văn hóa vốn đã méo mó đó. Một dân tộc sở hữu cả nền văn hóa dị dạng lẫn hệ thống pháp luật méo mó như vậy là một dân tộc đã chết về mặt văn hóa hay chết về đời sống tinh thần.

 

Ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với tiến trình phát triển

Thất bại trong việc xúc tiến sự đồng thuận

Văn hóa và phát triển có mối quan hệ biện chứng sâu sắc. Nếu có bề dày kinh nghiệm văn hoá, chúng ta sẽ có khả năng đồng cảm với những cộng đồng khác trong quá trình tương tác. Sự hiểu biết lẫn nhau sẽ khiến mỗi cộng đồng trở nên tinh tế hơn trong các hành vi tìm kiếm lợi ích của mình. Ngược lại, sự phát triển quá nhanh sẽ không tạo điều kiện cho sự ngưng tụ của các kinh nghiệm văn hóa và tạo ra trạng thái hời hợt về mặt văn hoá. Điều này sẽ khiến cho các hành vi tìm kiếm lợi ích của mỗi cộng đồng trở nên khó chấp nhận trong mắt những cộng đồng khác.

Thực tế cho thấy, ở những cộng đồng có nền văn hóa lạc hậu, thái độ cứng nhắc, không cởi mở và không khách quan đối với văn hóa tạo ra sự đối kháng không phải chỉ giữa tầng lớp này với tầng lớp kia, giữa thế hệ này với thế hệ kia trong cộng đồng mà hơn thế giữa chính cộng đồng đó với thế giới bên ngoài. Sức phá hoại của văn hóa mặc dù lâu hơn nhưng lớn hơn rất nhiều so với sự phá hoại của chính trị. Sự phá hoại đó thể hiện một cách hiền lành dưới dạng kìm hãm hay không hiền lành dưới dạng xung đột sắc tộc và tôn giáo, cho nên cần phải có thái độ khoa học với văn hoá. Cần phân tích cách đưa các yếu tố văn hóa hỗ trợ và lý giải các quá trình phát triển, trong đó quá trình quan trọng nhất là quá trình hội nhập. Văn hóa không có lợi ích trước mắt, văn hóa có lợi ích tinh thần lâu dài và gián tiếp, cho nên con người phải biết cách nhân nhượng đối với những xung đột quyền lợi mang tính văn hoá. Tóm lại, cần phải có thái độ khoa học đối với vai trò của văn hóa trong tiến trình phát triển của nhân loại nói chung và của thế giới thứ ba nói riêng.

Trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hoá, mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài. Nền văn hóa lạc hậu, không cởi mở chắc chắn không đủ khả năng giúp con người vượt qua ngưỡng của sự chậm phát triển do nó cản trở sự đồng thuận trong nhận thức của cộng đồng. Đã đến lúc các cộng đồng văn hóa cá biệt phải nhận ra rằng, cơ hội chắc chắn sẽ đến từ việc nâng cao tính mở của nền văn hóa vì mở cửa về văn hóa sẽ giúp một cộng đồng nâng cao năng lực thu nhận các giá trị tiến bộ và loại bỏ những gì lạc hậu và cản trở sự phát triển, cũng tức là xúc tiến sự đồng thuận trong việc vượt qua những khó khăn về nhận thức và hiện thực hóa các cơ hội phát triển của cộng đồng.

 

Những cơ hội bị bỏ lỡ - Hậu quả của việc duy trì các giá trị văn hóa lạc hậu

Văn hóa chính là cái nôi nuôi dưỡng mọi sự phát triển. Văn hóa tạo ra môi trường sống và không gian tinh thần để nâng đỡ các không gian chính trị và không gian kinh tế. Chính bởi vậy, sự phát triển về kinh tế và chính trị phụ thuộc đáng kể vào không gian tinh thần đó. Nếu không gian tinh thần lạc hậu, con người sẽ nảy sinh tâm lý tự mãn về những giá trị của mình, rất khó khăn trong việc nhận ra cái mới và tiếp cận cái mới, và do đó, sẽ bỏ lỡ các cơ hội phát triển.

Các quốc gia đang và kém phát triển thường có khuynh hướng duy trì bản sắc văn hóa như một bằng chứng về sự khác biệt, thậm chí lo ngại rằng, toàn cầu hóa sẽ xói mòn bản sắc văn hóa và bản lĩnh văn hoá, quên mất rằng bản sắc văn hóa hay bản lĩnh văn hóa đều được hình thành sau những quá trình lâu dài, tự nhiên và không thể biến mất trước những tương tác về văn hoá. Chính những lo ngại không có cơ sở và phản ứng tự vệ phi lý này đã gây ra những xung đột về văn hoá, thể hiện qua những xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình phát triển và tạo nên những phản ứng cực đoan đối với vấn đề toàn cầu hoá. Đáng lo ngại hơn, thay vì kêu gọi con người vươn tới sự phát triển như một trong những lợi ích quan trọng nhất, các quốc gia đang và kém phát triển còn tập trung nhận thức của con người vào nhược điểm của sự phát triển quá nhanh, không nhận ra rằng điều đó có thể triệt tiêu nhu cầu về sự phát triển trong mỗi con người và thậm chí cả cộng đồng. Mặt khác, các quốc gia đang phát triển luôn cảm thấy mình bị thua thiệt khi tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hoá, cho đến khi nhận ra rằng các cơ hội bị bỏ lỡ do sự dị biệt về văn hóa chính là thông điệp về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với sự phát triển.

Trung Quốc là một trong những quốc gia sớm thức tỉnh về ảnh hưởng của sự lạc hậu của văn hóa đối với những tiến bộ xã hội. Trong những thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã nổi lên như một hiện tượng của thế giới. Đương nhiên, sự phát triển của Trung Quốc xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, phải kể đến sự dũng cảm của người Trung Quốc trong việc nhận thức lại các giá trị của bản sắc văn hoá. Trung Quốc đã sớm hiểu rằng sự khác biệt là yếu tố đầu tiên gây ra những xung đột cả về nhận thức lẫn những xung đột trong quá trình kiếm tìm các lợi ích về kinh tế và chính trị. Do đó, duy trì bản sắc văn hóa một cách thái quá, tức tâm lý tự mãn về sự khác biệt, sẽ đem lại cho Trung Quốc sự thua thiệt trong tiến trình phát triển và toàn cầu hoá. Đối với trường hợp của Việt Nam, căm thù những kẻ đã từng xâm lược đất nước mình cũng là một trạng thái tình cảm tự nhiên, và đồng thời, là một giá trị văn hóa của người Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta không nên và không thể kéo dài lòng căm thù ấy đến hiện tại, bởi điều đó sẽ tạo ra quá nhiều thất thiệt trong quá trình phát triển và hội nhập. Nhận ra sự thất thiệt của việc bảo lưu các giá trị lạc hậu về văn hoá, thế giới thứ ba sẽ dũng cảm chia tay với những giá trị văn hóa lạc hậu và tham gia vào các quá trình hợp tác một cách tự tin và cởi mở. Có thể nói, thất thiệt chính là thông điệp về giới hạn của sự duy trì quá lâu các giá trị văn hóa đã lỗi thời làm cản trở tiến trình phát triển.

Nhận thức về tính giới hạn của sự lạc hậu tương đối của văn hóa thể hiện sự khôn ngoan của con người trong việc phân loại những công cụ hỗ trợ sự phát triển. Có thể nói, sự lạc hậu về mặt văn hoá, nếu nhìn từ góc độ này, sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tiến trình phát triển của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, thậm chí, tạo ra những trở ngại rất lớn trên phạm vi toàn cầu.

Như vậy, không thể phủ nhận sự kìm hãm của văn hóa lạc hậu đối với tiến trình phát triển của nhân loại nói chung và của thế giới thứ ba nói riêng. Tuy nhiên, ứng xử với sự trì trệ, sự lạc hậu về văn hóa không giống với ứng xử với sự trì trệ, sự lạc hậu về chính trị và kinh tế. Các mâu thuẫn về văn hóa không tạo ra các cuộc cách mạng bởi vì văn hóa là thông điệp chung của cộng đồng, nó được hình thành rất hòa bình. Văn hóa hình thành giống như sự lắng đọng của phù sa, vì thế không thể làm cách mạng văn hóa được. Cái mà Mao Trạch Đông gọi là cách mạng văn hóa thực chất là một cuộc cách mạng chính trị. Bên ngoài không phải là một cuộc chiến tranh nhưng tác hại hay chất lượng chiến tranh trong cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông lớn hơn bất kỳ một cuộc chiến tranh nào khác. Vậy các nước cần phải cải cách văn hóa như thế nào?

 

Cải cách văn hóa như thế nào?

Văn hóa hình thành một cách khách quan, tự nhiên và mang trong mình tính lạc hậu tương đối. Cải cách văn hóa là giải pháp duy nhất để ngăn chặn những yếu tố lạc hậu tương đối của văn hóa xâm nhập và ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống.

Tuy nhiên, những tác động của con người đối với văn hóa có thể khiến nó phát triển theo hai chiều hướng hoàn toàn khác nhau. Nếu lợi dụng văn hóa như một công cụ chính trị, chúng ta sẽ kìm hãm sức phát triển nội tại của nó. Trong trường hợp ngược lại, những tác động hợp lý của con người có thể thúc đẩy sự phát triển của văn hoá, biến nó thành chất xúc tác đối với các quá trình phát triển quan trọng khác.

Cải cách văn hóa không phải là một vấn đề hoàn toàn mới. Trong lịch sử, Lỗ Tấn từng có tham vọng cải cách văn hóa Trung Quốc. Nhiều người như ông đã tiếp cận một cách mong manh đến cái gọi là cải cách nền văn hóa của dân tộc mình. Thế nhưng, tất cả đều thất bại bởi không nhận thức được bản chất của cải cách văn hóa chính là làm thay đổi thái độ của con người đối với nghĩa vụ đóng góp của văn hóa vào trong đời sống phát triển. Cụ thể hơn, cải cách văn hóa chính là giải phóng văn hóa ra khỏi các định kiến chính trị, chấm dứt tình trạng sử dụng văn hóa như một công cụ để truyền tải các yếu tố chính trị bởi điều này không phù hợp với các đặc tính tự nhiên của đời sống văn hoá.

Vấn đề cải cách văn hóa cần được đặt ra một cách quyết liệt với các nước thế giới thứ ba bởi dường như họ vẫn sa lầy trong những cái mình có mà quên đi những cái mình cần. Sự khép kín của văn hóa là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất của căn bệnh hoài vọng này. Phải nhận thức rằng nếu không để văn hóa tiếp nhận một cách tự nhiên các yếu tố mới, nó sẽ tự xơ cứng và không thể đóng góp nghĩa vụ của mình trong đời sống hiện tại và cả đời sống phát triển. Nhiệm vụ của cải cách văn hóa là phải chỉ ra một thái độ khoa học, một thái độ triết học đúng đắn đối với sự tham gia của các yếu tố văn hóa trong đời sống.

 

Sự cần thiết phải cải cách văn hóa đối với các nước thế giới thứ ba

Nhiều thập kỷ đã trôi qua kể từ khi các nước thế giới thứ ba thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và giành được độc lập. Mặc dù những nhà lãnh đạo đã tiến hành cải cách kinh tế và cải cách chính trị, đến nay, thế giới thứ ba vẫn ngập chìm trong lạc hậu, khổ đau và nghèo nàn. Thực trạng này khiến người ta bắt đầu đặt câu hỏi, các nước thế giới thứ ba còn phải làm những gì để thoát khỏi bi kịch của mình và không bị tụt hậu so với tiến trình phát triển của thế giới?

Không thể phủ nhận rằng toàn cầu hóa là cơ hội cho các nước thế giới thứ ba nhận ra những mặt yếu kém của mình, qua đó, tìm ra giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy tốc độ phát triển. Trong suốt một khoảng thời gian dài, các nước thế giới thứ ba đã cố gắng khắc phục sự lạc hậu thông qua cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Tuy nhiên, các cuộc cải cách này luôn vấp phải một lực cản vô hình và do đó, không đạt được kết quả như mong muốn. Các nước thế giới thứ ba ngày càng nhận ra rằng dường như chính thái độ tiêu cực đối với văn hóa là yếu tố có sức cản lớn nhất đối với tiến trình phát triển, do đó, cải cách văn hóa là giải pháp duy nhất để thoát khỏi "cái vòng luẩn quẩn" đã giam hãm các quốc gia này như một định mệnh.

Văn hóa lắng đọng một cách tự nhiên trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Nó có thể thâm nhập vào những cộng đồng khác, các nền văn hóa khác và tạo ra những nhận thức mới. Vì vậy, một nền văn hóa lạc hậu sẽ kéo theo sự lạc hậu của tất cả những thành tố còn lại của đời sống, và vì thế, nó sẽ trì níu sự phát triển của chính trị - kinh tế và hạn chế thành công của cải cách chính trị và cải cách kinh tế. Do đó, ngoài việc tiến hành cải cách chính trị và cải cách kinh tế, các nước thế giới thứ ba cần phải tiến hành cải cách văn hóa nhằm tạo ra một sự bảo trợ tinh thần cho thành công của cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Mặt khác, việc tiến hành cải cách văn hóa còn nhằm đảm bảo tính đồng bộ của ba cuộc cải cách bao gồm cải cách kinh tế, cải cách chính trị và cải cách văn hoá. Nếu không tiến hành cải cách văn hoá, các nước thế giới thứ ba sẽ không thể thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu của mình, bởi sự lạc hậu của môi trường tinh thần sẽ tạo ra một sức cản rất lớn đối với tiến độ và tính triệt để của cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Ba cuộc cải cách này là ba bộ phận có tính chất bánh lái của đời sống xã hội. Vì vậy, hệ thống chính trị nào điều tiết được ba cuộc cải cách này một cách đồng bộ và linh hoạt, hệ thống chính trị ấy sẽ đạt đến trạng thái lý tưởng.

Tuy tiến công vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống, ba cuộc cải cải cách này đều nhằm tạo ra một không gian tự do cho sự phát triển. Nếu cải cách kinh tế nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường tự do, cải cách chính trị nhằm đưa hệ thống chính trị tiệm cận nền dân chủ thì cải cách văn hóa sẽ đưa nền văn hóa đạt tới trạng thái mở. Cải cách văn hóa hoàn toàn không kém phần quan trọng so với cải cách chính trị và cải cách kinh tế. Nếu không cải cách văn hoá, cải cách chính trị và cải cách kinh tế sẽ chỉ quẩn quanh trong những thành tựu khiêm tốn.

 

Cải cách văn hóa - Hạt nhân của quá trình phát triển

Thực tế chỉ ra rằng, về mặt nhận thức, các nước thế giới thứ ba chỉ nghiên cứu văn hóa với mục đích bảo tồn và duy trì bản sắc, quên mất rằng việc nghiên cứu bản sắc văn hóa còn giúp mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng nâng cao năng lực phát triển. Trước đây, người ta tưởng rằng chỉ có các nước thế giới thứ ba mới lo sợ bị mất bản sắc văn hóa do sự cọ sát và tương tác giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá. Nhưng thực ra không chỉ riêng các nước thế giới thứ ba mà ngay cả một số nước châu Âu cũng mang trong mình nỗi lo ấy. Từ đó, có thể đi đến kết luận tất cả các nước lạc hậu trên quy mô thế giới luôn luôn có một bản năng đề kháng, ngăn chặn sự mất mát bản sắc. Bản năng này dường như đã trở thành một loại phản ứng tự nhiên phổ biến trong các quốc gia mà năng lực cạnh tranh kém một cách tổng thể hoặc một cách tương đối. Cải cách văn hóa sẽ chấm dứt nỗi lo không có thật cũng như phản ứng thái quá này. Xuất phát từ luận điểm này, tôi cho rằng, văn hóa ngày càng đóng vai trò như điểm cốt lõi nhất của lý thuyết phát triển và cải cách văn hóa trở thành hạt nhân của quá trình phát triển.

Sở dĩ cải cách văn hóa đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một dân tộc là bởi nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến tầng lớp trí thức ở các nước thế giới thứ ba. Trong nửa thế kỷ qua, một số ít người có tư tưởng tiến bộ ở các nước thế giới thứ ba đã đưa ra đòi hỏi tách văn hóa ra khỏi chính trị. Tuy nhiên, họ mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những đòi hỏi về phương diện chính trị thay vì biểu lộ nhận thức đổi mới và cải cách về phương diện văn hoá. Mặt khác, đó chỉ là một số ít người so với đại bộ phận dân chúng thiên về chấp nhận sự ổn định tới mức trì trệ, và do đó, những tư tưởng và tâm huyết của riêng họ không đủ sức để tạo ảnh hưởng đối với tinh thần của các cộng đồng dân tộc.

Chỉ có cải cách văn hóa mới thực sự giải quyết được căn nguyên sâu sa của tình trạng lạc hậu ở các nước thế giới thứ ba bởi một nền văn hóa mở sẽ buộc thể chế chính trị phải thay đổi. Hoa Kỳ, cường quốc hàng đầu của nhân loại hôm nay, đã đạt được những thành công lớn lao không hẳn chỉ nhờ vào lực lượng quân sự hùng hậu, nền kinh tế tự do và thể chế chính trị dân chủ, mà còn vì đa số những người trí thức Hoa Kỳ đều bày tỏ quan điểm một cách dũng cảm về những điểm bất hợp lý và đấu tranh cho sự thay đổi. Trí thức ở các nước thế giới thứ ba hay trăn trở trước các vấn đề chính trị. Điều này là đáng quý và thực sự cần thiết. Nhưng nếu họ không tự xây dựng bản thân thành những người trí thức đúng nghĩa, mong ước và nỗ lực cải cách văn hóa theo hướng nâng cao tính mở của nền văn hoá, thì sự thay đổi chính trị, nếu xảy ra cũng không đi vào thực chất mà chỉ là những giải pháp tình thế.

 

Cải cách văn hóa để tránh sự xáo trộn trên quy mô toàn xã hội

Văn hóa là một trường hợp ngoại lệ của quy luật nếu không tiến hành cải cách thì sẽ phải đối mặt với cách mạng, bởi không có sự sụp đổ của văn hóa (nếu không tiến hành cải cách), và chúng ta cũng không thể thay thế một nền văn hóa này bằng một nền văn hóa khác (thông qua một cuộc cách mạng), nên không có cái gọi là cách mạng văn hoá. Tuy nhiên, nếu không tiến hành cải cách văn hoá, tính lạc hậu của nó sẽ xâm nhập vào đời sống và gây ra những xáo trộn trên quy mô toàn xã hội. Cách mạng văn hóa Trung Quốc là một ví dụ điển hình để chứng minh luận điểm này. Trước tiên, phải khẳng định rằng nền văn hóa Trung Quốc thời điểm ấy thực sự có vấn đề nhưng cách mạng văn hóa Trung Quốc không phải một cuộc cách mạng về văn hóa mà là một cuộc cách mạng chính trị. Nói cách khác, cách mạng văn hóa Trung Quốc là một công cụ chính trị để các bè phái thanh trừng lẫn nhau. Trong khi các nhà lãnh đạo đang hả hê với chiến thắng và đắm mình trong men say quyền lực thì cả xã hội Trung Hoa rơi vào tình trạng hỗn loạn. Cách mạng văn hóa đã đẩy vô số nhân tài vào sự bế tắc, cùng quẫn và ảnh hưởng nặng nề đến nền văn hóa vĩ đại của quốc gia này, các di sản văn hóa bị huỷ hoại, tệ sùng bái cá nhân và giáo điều, tả khuynh tràn ngập. Chỉ đến khi cách mạng văn hóa chấm dứt (khoảng những năm 70 của thế kỷ trước), Trung Quốc mới bước sang một chặng mới, để lại sau lưng nó một trong những tấn thảm kịch ghê gớm nhất của lịch sử Trung Hoa và của nhân loại thế kỷ XX. Từ viện dẫn trên, có thể khẳng định rằng, con người cần phải cải cách tất cả các lĩnh vực của đời sống để hiện đại hóa các hệ thống đang tồn tại nhằm phục vụ trạng thái mới của đời sống phát triển.

 

Những nội dung căn bản của chương trình cải cách văn hoá

Văn hóa hình thành một cách khách quan, tự nhiên và cải cách văn hóa là một quá trình chủ động, tuy nhiên, hoàn toàn không mâu thuẫn khi chúng ta đặt ra vấn đề cải cách văn hoá. Bởi sự chủ động không đơn thuần là người này tác động vào người kia mà còn là sự tác động vào chính mình và khuyến dụ mọi người chủ động tác động vào mình để cải cách thái độ đối với văn hoá. Quá trình này phải được bắt đầu từ việc các nhà cầm quyền tác động vào chính mình với việc phi chính trị hóa đời sống văn hoá. Khởi đầu theo cách này, các cộng đồng văn hóa sẽ tự chọn lựa một cách thích hợp nhất các giá trị của mình và đảm bảo tính đúng đắn của những giá trị ấy.

 

Loại bỏ các khuynh hướng văn hóa cực đoan

Đây là một trong những nội dung quan trọng của cải cách văn hóa bởi loại bỏ các khuynh hướng văn hóa cực đoan chính là làm trong sạch hóa đời sống văn hóa và đưa nền văn hóa tiệm cận trạng thái phát triển tự nhiên của nó.

Sinh thời, Lenin rất trọng hai nhà thơ Maiacopsky và Exenhin. Không ai có thể ca tụng Lenin hay hơn Maiacopsky. Nhưng Lenin có phần nào trọng Exenhin hơn bởi thơ của Exenhin viết về Liên Xô tự nhiên hơn, hay nói đúng hơn là những sáng tác của Exenhin không mang màu sắc và dáng dấp của các động cơ chính trị.

Trong lịch sử, các nhà chính trị từng đưa ra cương lĩnh văn hóa, như Cương lĩnh xây dựng con người Xô Viết của Lenin (viết cùng hai nhà lãnh đạo cấp cao khác), Cương lĩnh văn hóa Diên An của Mao Trạch Đông. Thật ra, lý do ra đời những cương lĩnh văn hóa thường rất tốt đẹp, nhưng xét về mặt bản chất, chúng phần nào bị cực đoan hoá. Bởi văn hóa là một sản phẩm tự nhiên và con người không thể áp đặt ý muốn chủ quan của mình để tiêu chuẩn hóa văn hóa của cả một dân tộc. Chính bởi vậy, các cương lĩnh văn hóa không có sức sống thật sự, chúng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định nhằm phục vụ những mục đích chính trị nhất định.

Văn hóa bao giờ cũng được hình thành từ sự thừa nhận tình cảm của mọi người. Việc cấy ghép các yếu tố chính trị sẽ làm gián đoạn đời sống phát triển của văn hóa và triệt tiêu khả năng tạo ra sự thức tỉnh của nó. Tuy nhiên, khẳng định như vậy không đồng nghĩa với việc các yếu tố chính trị không xâm nhập một cách tự nhiên vào đời sống văn hoá. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam đều cảm nhận giai đoạn kháng chiến như một giai đoạn lịch sử rất có giá trị. Văn hóa Việt Nam, một cách tự nhiên, đã hình thành nên một giai đoạn văn hóa thoả mãn những tâm tư và ước vọng nóng bỏng của con người. Có lẽ, không ai có thể quên bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi, một tác phẩm mang đầy âm hưởng hoành tráng của giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Điều làm nên sức sống mãnh liệt của "Đất nước" hay những tác phẩm tương tự chính là sự thể hiện các yếu tố chính trị một cách tự nhiên, chân thành và nồng nhiệt. Bài hát "Bóng cây Kơ-nia" của Phan Huỳnh Điểu cũng là một trường hợp như vậy. Đó là bản tình ca của chiến tranh, hội tụ những cảm xúc yên bình, trong sáng và lãng mạn nhất của thời chiến, vút lên trong một bối cảnh ác liệt và làm xúc động hàng triệu người, trong đó có cả những người ở phía bên kia chiến tuyến. Hoàn toàn không quá lời khi nói rằng bất kỳ tác phẩm nào phản ánh cuộc sống một cách trung thực với những cảm xúc tự nhiên sẽ có khả năng xâm nhập vào bất kỳ cá nhân nào và cộng đồng nào. Điều đó biểu hiện sự dung nạp các yếu tố tinh tuý và hợp lý của chính trị trong văn hoá, đồng thời là bằng chứng về khả năng thức tỉnh của văn hoá.

 

Nâng cao tính mở của nền văn hoá

Để nâng cao tính mở của nền văn hoá, đầu tiên và quan trọng nhất, chúng ta phải phân biệt giữa sự xuất hiện các yếu tố mới và sự can thiệp. Chẳng hạn, sự xuất hiện của kiến trúc Pháp ở Hà Nội trong những năm đầu của thế kỷ trước là sự xuất hiện tự nhiên của một yếu tố văn hóa mới và dân tộc chúng ta đã chấp nhận nó bằng tất cả sự ngưỡng mộ, bởi kiến trúc Pháp là sản phẩm vô cùng tinh tuý của văn hóa Pháp. Nó hợp lý, đẹp đẽ và hấp dẫn khiến người Việt Nam vẫn sử dụng nó để thể hiện một cách khéo léo óc thẩm mỹ và tư duy không gian tinh tế. Đó không phải là sự can thiệp mà là yếu tố mới xâm nhập vào nền văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa kiến trúc Việt Nam nói riêng, được nền văn hóa Việt Nam tiếp nhận và "Việt hoá" một cách duyên dáng. Tuy nhiên, nhân danh bản sắc kiến trúc Việt Nam mà đòi hỏi phá đi các kiến trúc Pháp hoặc không xây các công trình theo kiến trúc Pháp nữa lại chính là sự can thiệp.

Một nền văn hóa mở có thể chấp nhận những dị biệt của các nền văn hóa khác, thậm chí dung nạp nếu đó là những sản phẩm tinh tuý của các nền văn hóa khác. Hơn nữa, trong một nền văn hóa mở, con người sẽ không cường điệu hay tự ti về các giá trị của văn hoá, và do đó, nền văn hóa ấy sẽ không bị lạc lõng trong quá trình tương tác với nền văn hóa của những cộng đồng khác. Đây chính là một trong những điểm ưu việt của nền văn hóa mở bởi sự cường điệu các giá trị của mình có thể khiến các nước thế giới thứ ba trở thành những chàng Narsis của thời hiện đại. Nó cũng thể hiện thái độ thiếu khiêm tốn và dị ứng với sự khác biệt của những cộng đồng khác. Trong khi đó, tự ti về những giá trị của mình lại khiến thế giới thứ ba trở nên biệt lập và khu trú trong tiến trình phát triển chung của nhân loại. Cả hai thái độ ấy đều dẫn đến sự chia rẽ trong tiến trình hội nhập của mỗi cộng đồng và tiến trình toàn cầu hóa của toàn nhân loại.

Bên cạnh đó, một nền văn hóa mở còn có khả năng thải hồi những giá trị đã lỗi thời. Con người thường luyến tiếc những thứ mình nhặt được trên chặng đường phát triển của mình. Dường như, thế giới thứ ba đã tự kìm hãm sự phát triển của mình với việc đặt quá khứ lên trên hay ngang với hiện tại và quên mất rằng điều đó có thể khiến cuộc sống thật phải ra đi bởi nó đã bị tước bỏ vai trò trong hiện tại. Duy chỉ có Trung Quốc biết đặt quá khứ vào đúng vị trí của nó qua việc sắp xếp các hệ tư tưởng theo trục thời gian (chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, lý thuyết "Ba đại diện" của Giang Trạch Dân) và người dân chỉ còn nhìn thấy bóng dáng của các lý thuyết cũ một cách xa xôi thay vì đối mặt với nó trong cuộc sống hằng ngày. Các nước thế giới thứ ba phải đủ dũng cảm để nhận ra những gì đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và đặt chúng vào đúng vị trí của cuộc sống. Một nền văn hóa mở sẽ cho phép quá trình tìm kiếm, phân loại, thải hồi và thay thế diễn ra một cách tự nhiên, hòa bình và hợp lý. Đó chính là tiền đề của sự phát triển về mặt nhận thức và là giải pháp duy nhất để chữa trị một cách triệt để căn bệnh hoài vọng đã và đang đeo đẳng các nước thế giới thứ ba trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình.

Tuy nhiên, giống như bất kỳ lĩnh vực nào, văn hóa cũng có những giới hạn của nó. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải nhận ra điểm tới hạn của tính mở để có hành vi cải cách văn hóa hợp lý sao cho cải cách văn hóa không hạn chế quyền tự do lựa chọn mà thậm chí còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc chắt lọc những giá trị hợp lý và tinh tuý nhất để hấp thụ. Bên cạnh đó, để mở rộng sự lựa chọn của nền văn hoá, các nhà cầm quyền của thế giới thứ ba phải xúc tiến quá trình giao lưu toàn diện để nền văn hóa thế giới thứ ba được cọ sát với những nền văn hóa tiên tiến khác. Thông qua sự cọ sát ấy, con người, trên tư cách chủ thể của nền văn hoá, sẽ tự nhận thức về sự lựa chọn của mình, mở rộng không gian văn hóa và hợp lý hóa đời sống văn hóa của mình. Sự phong phú về đời sống văn hóa của mỗi cá nhân, khi tương tác với nhau, sẽ tạo ra sự phong phú và trạng thái mở của nền văn hoá.

Khi mở cửa kinh tế, các yếu tố văn hóa ngoại ồ ạt xâm nhập vào và chắc chắn là chúng sẽ tác động đến văn hóa bản địa. Tức là những đòi hỏi khách quan của cuộc sống tự bản thân nó cũng tác động phần nào đến văn hóa và làm cho văn hóa bị điều chỉnh theo một cách bản năng. Có thể nào chúng ta sử dụng các vật phẩm từ nước ngoài mà vẫn là người đứng ngoài đời sống văn hóa đó không? Suy cho cùng, các giá trị văn hóa có động lực cấy ghép ở trong các giá trị vật chất cụ thể. Khi chúng ta mở cửa, các yếu tố văn hóa nước ngoài ồ ạt vào và dẫn đến một mối lo làm biến dạng nền văn hóa bản địa, thậm chí đã có người gọi đó là sự xâm lược văn hoá. Đó là một sự cường điệu rất phi khoa học và phi nhân văn. Hội nhập, về bản chất, là con người có đủ năng lực để sống và cạnh tranh một cách thành công đối với các cộng đồng khác, muốn vậy con người phải có kinh nghiệm của các nền văn hóa khác. Chính những yếu tố nước ngoài trong nền văn hóa Việt Nam là nhân tố đầu tiên tạo ra năng lực hay tạo ra kinh nghiệm của người Việt Nam đối với các nền văn hóa khác. Các yếu tố văn hóa nước ngoài khi xâm nhập vào Việt Nam có hai dạng; có những cái đi qua và có những cái ở lại. Cái đi qua là cái vào một cách tự nhiên và ra một cách tự nhiên, là cái không có nhu cầu ở lại hay không có khả năng ở lại. Người Việt không hát Opera được nhưng người Việt hát nhạc Pop, nhạc Rock rất giỏi. Như vậy không phải loại hình văn hóa nào vào Việt Nam cũng ở lại. Tôi cho rằng, nó không ở lại vì nó không có năng lực ở lại. Nó muốn có năng lực ở lại thì nó phải làm cho người ta thích. Có những thứ không đủ năng lực ở lại, có những thứ mà người Việt không đủ năng lực để giữ lại, có những thứ đến nhưng lắc đầu và bỏ đi. Y học phương Tây là một ví dụ. Y học phương Tây là một nền y học vĩ đại mà nếu không có những giáo sư Hồ Đắc Di, giáo sư Tôn Thất Tùng vĩ đại... thì không có nền y học phương Tây ở Việt Nam. Do vậy, phải phân biệt được những thứ không có năng lực ở lại với những thứ mà người Việt không có năng lực giữ lại.

Nhưng có những thứ ở lại, như sơn dầu chẳng hạn. Bây giờ tất cả các họa sĩ Việt Nam đều biết vẽ bằng sơn dầu và khoảng trên 50% các sản phẩm hội họa Việt Nam là sơn dầu. Đôi lúc người ta nói rằng chính sự ở lại của sơn dầu đã bóp chết tranh Đông Hồ. Thật là phi lý. Tại sao cứ phải vẽ bằng bột màu mà không bằng sơn dầu, trong khi có những tác phẩm vẽ bằng sơn dầu rất đẹp như Thiếu nữ bên hoa huệ của họa sỹ Tô Ngọc Vân. Sự cởi mở của một nền văn hoá, thái độ vồn vã của chủ nhà đối với các nền văn hóa khác chính là cơ sở, là tiền đề tạo ra một nền văn hóa có năng lực hội nhập, tạo ra một nền văn hóa lớn. Do vậy, nhân loại luôn tồn tại sự trôi dạt của những yếu tố khác nhau của nền văn hóa toàn cầu đến các vùng đất khác nhau. Đạo Kitô là một ví dụ, nó trở thành những tu viện, bà sơ, những đức mẹ đi chữa bệnh khắp nơi. Tất cả sự trôi dạt như vậy của những yếu tố văn hóa khác nhau, của những giá trị văn hóa phổ biến của nhân loại đến những vùng đất hẻo lánh đã tạo ra sự bừng sáng của những vùng đất vốn dĩ tăm tối.

Nếu muốn phát triển mà không đón chào những sự trôi dạt như vậy của những sản phẩm văn hóa từ những vùng đất phát triển thì có nghĩa là thế giới thứ ba tự tước bỏ đi cơ hội để thức tỉnh sự phát triển. Do đó, cải cách văn hóa với ý nghĩa là cải cách thái độ của con người đối với nghĩa vụ của văn hóa đóng góp vào sự phát triển chính là cải cách thái độ đón chào những phẩm vật khác nhau của đời sống tinh thần nhân loại trôi dạt đến những vùng đất khác nhau của đời sống tinh thần và đấy chính là tín hiệu đầu tiên của việc phổ biến các nguyên lý phát triển. Xây dựng một thái độ công bằng cho việc đánh giá các thành tựu của các yếu tố văn hóa chính là mục tiêu, là nội dung của cuộc cải cách văn hoá. Thế giới thứ ba phải xây dựng thái độ công bằng đối với văn hóa thì các yếu tố văn hóa mới trôi dạt đến những vùng đất này, mới tạo ra tính đa dạng tinh thần, làm tăng cường tính phong phú cho đời sống tinh thần, và đấy là một trong những yếu tố quan trọng nhất để tạo ra tính hấp dẫn của thế giới thứ ba.

Napoleon Bonaparte nói một câu rất nổi tiếng rằng "Nếu mất tiền bạc, người ta không mất gì, nếu mất niềm tin, người ta mới chỉ mất một nửa, trong khi nếu mất lòng dũng cảm, người ta sẽ mất tất cả". Cải cách văn hóa là một trong những cuộc cải cách quan trọng nhất của nhân loại bởi nó sẽ khôi phục lại khả năng tự thải hồi các giá trị đã lỗi thời và tự cập nhật các giá trị tiến bộ của nền văn hoá. Tuy nhiên, nó cũng là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và đòi hỏi lòng dũng cảm thực sự. Tôi kỳ vọng rằng các nước thế giới thứ ba sẽ có đủ lòng dũng cảm để tiến hành cải cách văn hóa trong mối tương quan với cải cách chính trị và cải cách kinh tế. Bởi chỉ có như thế, thế giới thứ ba mới có thể tự giải thoát cho chính mình, thoát khỏi sự bủa vây của bóng tối và bước vào một tương lai tươi sáng.

Theo vanhoahoc.ed.vn