Nội san

Hành trình sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ

24 Tháng Tám 2012

Nguyễn Thế Khoa

 

Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian, diễn xướng dân gian độc đáo, hấp dẫn, có giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật to lớn và có sức sống lâu bền bậc nhất trong lịch sử văn hoá Việt Nam, ra đời, phát triển và đạt đến đỉnh cao tại các làng quê xứ Kinh Bắc xưa, nay thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.

Là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, quan họ là một tổng thể do nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật dân gian xứ Kinh Bắc hợp thành qua một quá trình lịch sử lâu dài. Nó là một chỉnh thể văn hoá nghệ thuật gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người, với văn hóa, văn minh làng xã, thu hút và biểu hiện những ước mơ, những nguyện vọng, những khát vọng, thể hiện quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người nơi đây.

Theo chiều dài lịch sử, sinh hoạt văn hoá quan họ đã sáng tạo, dung nạp, chuyển hóa, sinh thành, đào thải...trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá với các hình thức sinh hoạt văn hoá khác ở địa phương, ở trong nước và các nước láng giềng để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu phát triển qua từng thời đại, nên giá trị nội dung, nghệ thuật của sinh hoạt văn hoá quan họ giàu có, phức tạp, đa diện, phát triển và biến hoá không ngừng.

Sáng tạo sinh hoạt văn hóa quan họ, với những phong tục, lề lối in đậm truyền thống nhân văn dân tộc, với những làn điệu và lời ca tài hoa, độc đáo, duyên dáng, tinh tế, người Kinh Bắc đã cho thấy một đời sống tinh thần vô cùng phong phú, rộng mở và một khả năng sáng tạo, thưởng thức văn hoá nghệ thuật ở trình độ cao từ xa xưa. Nói như nhà nghiên văn hoá dân gian tiền bối Vũ Ngọc Phan thì dân ca quan họ đã cho thấy các làng quê xứ Kinh Bắc có thể sản sinh ra “những nhạc sĩ dân gian thiên tài” “những nhà thơ dân gian xuất chúng” như thế nào.

Quan họ đã trở thành một đặc sản văn hoá đầy tự hào của người dân Kinh Bắc, một biểu hiện rực rỡ của truyền thống văn hoá văn minh và nghệ thuật Việt Nam.

Việc sưu tầm nghiên cứu, giới thiệu quan họ như một sinh hoạt dân ca độc đáo, tiêu biểu của dân tộc đã được một số nhà nghiên cứu văn hoá, học giả nước ta khởi xướng từ trước cách mạng tháng Tám. Bắt đầu là tác giả Chu Ngọc Chi với công trình sưu tầm giới thiệu “Hát quan họ” (Nhà xuất bản Phú Hiệp Sài Gòn, 1928).  Tiếp theo là Nguyễn Văn Huyên với luận văn Tiến sĩ tại đại học Sorbone, Pari, năm 1934, có tên gọi “Hát đối đáp nam nữ thanh niên”. Sau đó là một số bài du ký, tiểu luận in trên báo chí đương thời của các tác giả như Vũ Bằng, Nguyễn Duy Kiện, Việt Sinh, Minh Trúc, Mạnh Quỳnh, Toan Ánh...và dân ca quan họ đã được giới thiệu trong sách “Việt Nam văn học sử yếu” của học giả Dương Quảng Hàm.

Tuy vậy, theo GSTS Trần Văn Khê, những công trình nhỏ lẻ giai đoạn này chưa được mấy người biết tới. Bản thân Trần Văn Khê cho tới đầu 1950 vẫn chưa hình dung ra dân ca quan họ là thế nào.

Trong kháng chiến chống Pháp, việc sưu tầm, nghiên cứu, chỉnh lý, phục hồi dân ca quan họ đã được tiến hành giữa khói lửa chiến tranh ngay tại chiến khu Việt Bắc và mười bài quan họ đã có mặt và được hoan nghênh nồng nhiệt trong chương trình biểu diễn chào mừng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của Đoàn Văn công Quân đội. Sau đó, nhiều tiết mục dân ca quan họ đã xuất hiện và gây chú ý lớn tại Đại hội Văn công toàn quốc lần thứ nhất năm 1954 cũng như được các nghệ sĩ Việt Nam đưa đi trình diễn tại các Liên hoan thanh niên sinh viên thế giới và được dư luận bạn bè quốc tế đánh giá rất cao.

Sự chinh phục hiển nhiên, ngoạn mục của âm nhạc và lời ca quan họ trên các sân khấu trong nước và thế giới đã tạo ra cả một phong trào sưu tầm, nghiên cứu, phục hồi dân ca quan họ từ sau 1954 trên miền Bắc XHCN. Các nhạc sĩ Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Lê Yên, Lê Huy, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Đình Tấn, Tử Phác, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc, Lưu Khâm, Hồng Thao. Nguyễn Trọng Anh, Hữu Thu...các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Lê Thị Nhâm Tuyết, Lê Văn Hảo, Nguyễn Địch Dũng, Lê Trung Vũ, Lê Hồng Dương, Đặng Văn Lung, Trần Linh Quý, Lê Danh Khiêm... đã dành nhiều sự quan tâm sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ.

Hai tập sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh” của các tác giả Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc được nhà xuất bản Văn hoá xuất bản năm 1961 và “Một số vấn đề về dân ca quan họ” do Ty Văn hoá Hà Bắc xuất bản năm 1972, tập hợp những tham luận tại 4 cuộc hội thảo về quan họ trong các năm 1965, 1967, 1969, 1971 được tổ chức tại cái nôi quan họ Hà Bắc, có thể coi như hai công trình tiêu biểu cho những thành tựu sưu tầm nghiên cứu dân ca quan họ cho đến trước năm 1975 ở trong nước. Cùng thời gian này, ở châu Âu, GSTS Trần Văn Khê cũng đã bắt đầu giới thiệu dân ca quan họ trong hai công trình “Âm nhạc truyền thống Việt Nam”“Hát quan họ”. Năm 1969, sự kiện Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc ra đời cũng là một cột mốc có ý nghĩa trong công tác sưu tầm nghiên cứu quảng bá dân ca quan họ.

 

Ảnh: Hội Lim

 

Từ sau năm 1975 cho đến nay, việc sưu tầm nghiên cứu và giới thiệu rộng rãi dân ca quan họ đã tiến thêm những bước mới ở trong nước cũng như ngoài nước. Ở ngoài nước, các nhà nghiên cứu, nhạc sĩ Việt kiều như Trần Văn Khê, Trần Quang Hải, Nguyễn Thuyết Phong, Hoàng Ngọc Tuấn, Hoàng Việt Khanh...tiếp tục có những hoạt động nghiên cứu, giới thiệu dân ca quan họ đầy đủ và toàn diện hơn nhờ tiếp thu, cập nhật được các thành tựu sưu tầm nghiên cứu trong nước và của folklore học, dân tộc nhạc học thế giới. Riêng GSTS Trần Văn Khê đã có tới hơn 60 bài viết về quan họ trên sách báo quốc tế. Nhiều đoàn nghiên cứu, nhiều chuyên gia âm nhạc và dân tộc nhạc học thế giới đã đến Việt Nam để nghiên cứu giới thiệu dân ca quan họ. Đáng chú ý nhất ở trong nước trong thời kỳ này là các sự kiện: phục hồi các lễ hội truyền thống tại các làng quan họ cổ truyền, công bố các cuốn sách: “Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển” của các tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý  (Nhà xuất bản khoa học xã hội-528 trang-1978), “Dân ca quan họ” (Nhà xuất bản âm nhạc - 1997) ,“300 bài dân ca quan họ Bắc Ninh” (Viện nghiên cứu âm nhạc - 960 trang - 2002) cùng của tác giả Hồng Thao và việc Nhà nước ta cho phép ngành văn hoá thông tin và tỉnh Bắc Ninh chính thức lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận dân ca quan họ là “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại”.

Với việc thành lập Đoàn dân ca quan họ Hà Bắc (nay là Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh), lần đầu tiên chúng ta có một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp nhà nước chuyên về quan họ. Mục tiêu ban đầu của đoàn rất rõ: tập hợp các nghệ nhân quan họ lão thành và các tài năng trẻ là các là liền anh, liền chị từ các làng quan họ để phục hồi và phát triển nghệ thuật quan họ cổ truyền. Trong những năm từ 1970-1974, các nghệ sĩ trẻ từ 13 đến 20 tuổi của Đoàn, vốn được tuyển lựa từ các làng quan họ cổ truyền,  đã về ở tại các làng quan họ, được các nghệ nhân  truyền dạy trực tiếp từng làn điệu, từng câu hát, từng mỗi luyến láy và mỗi nghệ sĩ trẻ đã tích luỹ được cả trăm bài hát quan họ cổ truyền. Tiếp đến đoàn đã dựng hai chương trình tái hiện quan họ hát hội và quan họ hát canh với tên gọi “Quan họ ngày hội” “đón bạn ngày xuân”. Sau khi trình diễn để xin ý kiến nghệ nhân và nhân dân các làng quan họ, Đoàn đã có chuyến công diễn ra mắt lịch sử gần nửa tháng trời tại Hà Nội vào đầu tháng 5/1974 và được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, giới văn hoá nghệ thuật và nhân dân thủ đô hoan nghênh nhiệt liệt.

Sự có mặt của Đoàn dân ca quan họ có tác dụng nhất định kích thích sự phục hồi và phát triển sinh hoạt quan họ tại địa phương cũng như giới thiệu nghệ thuật ca hát quan họ với người xem trong nước và thế giới. Tiếng hát quan họ đã được những tên tuổi rất được mến mộ như Thuý Cải, Ba Trọng, Thuý Hường, Khánh Hạ...đưa đi rất xa và có sức chinh phục lớn. Tuy nhiên, vì  nhiều lý  do, Đoàn đã không kiên trì được định hướng tốt đẹp ban đầu, việc cải biên, chỉnh lý theo các nguyên tắc tân nhạc hoá và sân khấu hoá vội vàng, ồ ạt, nhằm thoả mãn thị hiếu của một số công chúng đã làm các tiết mục biểu diễn của đoàn đi quá xa cội nguồn, đánh mất nhiều tinh hoa hương sắc của dân ca quan họ cổ truyền, bị giới quan họ truyền thống dị ứng, vẫn coi như các sản phẩm của một thứ “quan họ đài”, “quan họ đoàn”, tức chỉ là hình thức ca nhạc mới mang màu sắc quan họ chứ không còn là quan họ đích thực.

 

Ảnh: Hội Lim

 

Việc phục hồi các lễ hội truyền thống của các làng quan họ trong nhưng năm đổi mới đã tạo ra một động lực mạnh mẽ, một nền tảng lớn để phục hồi dân ca quan họ. Dân ca quan họ, về cơ bản, là nghệ thuật ca hát của các hội làng quan họ, do nhân dân tại các làng quan họ sáng tạo, gìn giữ và truyền bá, phát triển. Các hội làng Kinh Bắc là môi trường tốt nhất, lý tưởng nhất để bảo tồn, phát huy, phát triển dân ca quan họ. Các nhóm quan họ, “bọn quan họ” được phục lập, các cuộc hát thi, hát hội hát canh lại được tổ chức tại các hội làng. Dân ca quan họ đã phần nào trở lại tại các hội Lim, hội Diềm, hội Nhồi, hội Ó, hội Thổ Hà, hội Bùi, hội Chắp...Tuy vậy, có thể nhận thấy sinh hoạt quan họ tại các hội làng hiện nay cũng khá lai tạp, nhiều phong tục, lề lối cao đẹp xưa đã bị tuỳ tiện bỏ qua và cũng là nơi các loại “quan họ đoàn”, “quan họ đài”, quan họ thương mại lấn át quan họ cổ truyền. Như vậy, không chỉ ở các “đoàn”, “các “đài”, mà ngay tại các làng quan họ truyền thống, các loại quan họ nhạc mới, quan họ biểu diễn cũng đang chiếm thế thượng phong. Thậm chí, một quan chức lãnh đạo ngành văn hoá thông tin quê hương quan họ đã từng không ngần ngại công khai phát biểu rằng đã đến lúc nên đưa quan họ cổ truyền, quan họ sinh hoạt đã già cỗi, lỗi thời vào viện bảo tàng để cho quan họ nhạc mới, quan họ biểu diễn, một thứ quan họ mà ông cho là thích hợp với thời đại mới, rộng đường phảt triển.

Nguy cơ mai một thứ quan họ thuần chất, tuyệt đẹp từng có cũng đã xuất hiện tại nơi được coi là cái gốc của dân ca quan họ, nơi dân ca quan họ nảy nở, phát triển, thăng hoa và đạt đến những đỉnh cao chói lọi.

Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do sự thiếu hiểu biết toàn diện, sâu sắc về truyền thống quan họ, về những đặc trưng nghệ thuật và quy luật bảo tồn phát triển của nó cùng sự bối rối mất phương hướng trong việc giải quyết các mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, giao lưu và hội nhập. Những thành tựu nhiều mặt trong công tác sưu tầm nghiên cứu quan họ cổ truyền đã không được các nhà quản lý và những người thực hành quan họ biết, hiểu, nắm vững và vận dụng trong thực tế phục hồi và phát triển dân ca quan họ.

Cần khẳng định rằng thành tựu sưu tầm nghiên cứu về dân ca quan họ trong hơn nửa thế kỷ qua dưới ánh sáng của đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta là không nhỏ.

Nổi bật nhất trong việc sưu tầm dân ca quan họ là các công trình “Dân ca quan họ Bắc Ninh” (của nhóm tác giả Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc) với bộ sưu tập 200 làn điệu và 320 bài ca quan họ khác nhau, “Dân ca quan họ - Lời ca và bình giải” (Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh- Trung tâm Văn hoá quan họ Bắc Ninh 2001) với 213 giọng quan họ và 346 bài ca, “300 bài dân ca quan họ Bắc Ninh” của Hồng Thao, một người Hà Nội vì yêu quan họ đã lên sinh sống ở Thị Cầu Bắc Ninh, chịu nghèo khó, hy sinh trọn đời để sưu tầm nghiên cứu quan họ. Có  thể  nói công phu và nghiêm cẩn nhất là công trình của Hồng Thao sưu tầm, ghi âm, ký âm chú giải hết sức trung thực, kỹ lưỡng 174 làn điệu dân ca quan họ và hơn 100 dị bản chọn lọc từ chính các nghệ nhân nổi tiếng ở các làng quan họ, không cải biên, không chỉnh lý.

Trong công tác nghiên cứu, các nhạc sĩ Văn Cao, Lê Yên, Lưu Hữu Phước, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Đình Phúc, Đôn Truyền... có những phát hiện, đúc kết quý giá về những đặc sắc âm nhạc học của dân ca quan họ như một trong những đỉnh cao của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Đặc biệt nhạc sĩ Hồng Thao, người nhạc sĩ đã thực sự hiến mình cho dân ca quan họ, không những cần mẫn thận trọng trong sưu tầm mà còn xuất sắc nổi bật trong nghiên cứu. Với “Dân ca quan họ”, chính Hồng Thao đã có một công trình phân tích, kiến giải, tổng kết cụ thể, toàn diện, sâu sắc, khoa học và có sức thuyết phục về tính chất và đặc điểm của âm nhạc và ca hát quan họ. Nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung đóng góp một công trình mô tả khá sâu sắc, toàn diện về không gian văn hoá, nguồn gốc và quá trình phát triển của dân ca quan họ với tư cách là một hình thức diễn xướng dân gian Kinh Bắc. Nhà nghiên cứu Trần Linh Quý rất nhạy cảm, sáng tạo khi phục hiện được chân dung tinh thần cùng tài năng và những đặc điểm sáng tạo của  Người nghệ sĩ quan họ”, nhân vật trung tâm của dân ca quan họ .

Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có những công trình có tính chất tổng kết những đặc trưng cơ bản của dân ca quan họ, một hình thức diễn xướng dân gian, một thể loại âm nhạc cổ truyền đã đạt đến đỉnh cao, đã được luyện thành ‘vàng mười” và có sức sống xuyên thời gian, xuyên không gian, tìm ra các quy luật bảo tồn và phát triển được hình thành từ chính trong quá trình phát triển, biến hoá của quan họ, mạnh dạn chỉ ra những cái bất biến và khả biến của dân ca quan họ, góp phần giúp việc bảo tồn và phát triển sinh hoạt âm nhạc truyền thống độc đáo này đúng hướng, đạt hiệu quả cao, không “gieo vừng ra ngô” như Bác Hồ từng cảnh báo.