Nội san

Thế nào là lý luận âm nhạc và phê bình âm nhạc?

06 Tháng Ba 2012

Hội thảo khoa học: Lý luận phê bình âm nhạc

 

TS. Nguyễn Đăng Nghị

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật

 

         1. Đây là vấn đề mà những người học nhạc và thậm chí có người không học nhạc từng làm và vẫn làm, cứ tưởng là đơn giản dễ hiểu, nhưng hóa ra lại vô cùng phức tạp khi nhận diện nó. Theo tôi, thế nào là phê bình âm nhạc? thế nào là lý luận âm nhạc? (xin đảo lại trật tự câu của hội thảo), câu hỏi này thuộc loại bản thể luận. Hỏi có một, nhưng có nhiều cách trả lời. Do vậy, nếu coi đó là một khái niệm thì nội hàm của nó sẽ mênh mông như biển lớn. Còn cho nó là cụm từ ghép thì rõ ràng, cụm từ này rộng nghĩa và rỗng nghĩa. Quả thật, ranh giới giữa phê bình và lý luận rất mờ nhạt và mong manh. Tuy nhiên, dẫu có mong manh đến mấy thì những người quan tâm vẫn cứ muốn phân định rạch ròi, như cách đặt vấn đề của cuộc Hội thảo này.

        2. Nói có sách, mách có chứng, tôi lục tìm 3 cuốn: cuốn 1 Từ điển học sinh (1971)[1], cuốn 2 Từ điển tiếng Việt (1997)[2], cuốn 3 Từ điển tiếng Việt (1998)[3] xem các nhà ngôn ngữ học giải thích thế nào là phê bình? thế nào là lý luận? để từ đó có cơ sở mà nhìn sang lĩnh vực âm nhạc.

         Ở cuốn 1, phê bình: chỉ ra cái hay, cái dở, tìm nguyên nhân, để từ đó phát triển cái hay và bỏ đi cái dở (tr.434). Còn lý luận được giải thích: I.1. Sự tổng hợp các trí thức về tự nhiên và xã hội, dùng để hướng dẫn cho hoạt động đấu tranh sau này của con người: lý luận do hoạt động thực tiễn của con người sinh ra. 2. Kinh nghiệm của loài người về một mặt hoạt động nào đó đã được đúc kết khái quát một hệ thống lý lẽ có giá trị áp dụng rộng lớn...II. Vận dụng lý lẽ để để luận bàn hay chứng minh (tr.328).

         Cuốn 2, phê bình: xem xét, phân tích, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm... (tr.750). Còn lý luận: 1. Hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. 2. Những kiến thức được khái quát và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nào đó (tr.544-545).

         Cuốn 3, thì phê bình được giải thích giống cuốn 2 (tr.1034). Lý luận không thấy giải thích.

         Cho dù cách giải thích của các nhà ngôn ngữ học mang tính khái quát, phổ quát, nhưng đều có điểm chung: phê = phê phán, bình = bình luận một vấn đề nào đó; lý luận = đúc hết một lệ thống lý lẽ có giá trị áp dụng rộng lớn. Từ đây suy ra, phê bình âm nhạc là tìm ra những cái hay cái dở của một tác phẩm hay trào lưu âm nhạc, hoặc nhà soạn nhạc... để bình luận. Còn lý luận là tìm ra một hệ thống lý thuyết âm nhạc để hướng dẫn cho hoạt động âm nhạc.

         Cách giải thích như vậy, thực sự là mơ hồ, giống như người đi biển mà không có hải bàn vậy.

         3. Trong đời sống âm nhạc Việt Nam, thực ra phê bình âm nhạc đã loáng thoáng thoáng xuất hiện những năm 30 của thế kỷ trước qua một só bài của các tác giả Đồ Nam, Nguyễn Văn Điều ...viết về âm nhạc nước nhà trong quá trình giao thoa văn hóa với âm nhạc phương Tây. Những bài viết này mang nặng chủ kiến cá nhân, chưa dựa trên một nền tảng lý thuyết nào để đánh giá, hướng dẫn dư luận về vấn đề mà các ông đề cập. Nhìn chung, thời gian đã trôi 3/4 thế kỷ, đến nay những người làm công việc này vẫn chưa làm cho "mảnh đất phần trăm" của trở nên tốt tươi hơn so với trước. Chính sự trì trong cách thức tư duy, đã tạo ra đường mòn trong đầu của nhiều người, khi nhìn nhìn nhận và định danh nó. Và, phê bình âm nhạc, theo cách hiểu thông thường, chỉ là sự khen chê một tác phẩm, một tác giả, một sự kiện âm nhạc... Phê bình ấy, nó có thể là lời nói phát ra từ miệng của người dân bình thường, cao hơn chút là những danh cầm, danh ca, cao hơn nữa cộng thêm chút quyền lực là danh gia, danh sĩ.

          Phê bình theo cách này, người phê bình đứng ngoài hệ thống âm nhạc, nghĩa là chỉ biết đến tác phẩm, còn tác giả, công chúng và những yếu tố ngoại biên hoàn toàn không được chú ý. Vì thế khi phê bình, người làm công việc này thường lấy tác phẩm làm cớ để thể hiện những ý kiến chủ quan của họ.

          Cuốn Sinh lý học phê bình của Thibaude A (1874 - 1936) - nhà phê bình văn học Pháp - xb 1930, ông đã chia phê bình thành: phê bình nói, phê bình chuyên nghiêp (phê bình của các giáo sư) và phê bình của các nghệ sĩ. Đây là cách chia đã trở thành kinh điển, cho dù ngày này nó đã bộc lộ những điều không hợp lý đối với các loại hình nghệ thuật ở thế giới nói chung và nước ta nói riêng, nhưng đối với đời sống âm nhạc nước nhà, nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Bởi nó chú ý đến bản thân người phê bình nhiều hơn là bản thân sự phê bình. Chức sắc, học hàm, học vị, vị trí làm việc.. là điều kiện có thể tạo ra một quyền lực đủ mạnh để đè bẹp, hay thổi phồng những giá trị đạo đức ngoài nội dung của tác phẩm. Và ý kiến chủ quan của họ nghiễm nhiên sẽ tạo ra khuôn vàng thước ngọc để hướng dẫn dư luận, ngược lại mảnh đất phần trăm mà họ canh tác lại trở nên khô cằn cỗi hơn.

         Cũng trong đời sống âm nhạc Việt Nam, lý luận xuất hiện muộn hơn phê bình. Người làm lý luận âm nhạc, tất yếu phải biết lý thuyết, hoặc những nguyên lý về âm nhạc để vận dụng nó làm công tác chuyên môn. Như vậy chỉ sau khi có hệ thống trường sở đào tạo về âm nhạc (kể cả người có ý thức tự đào tạo theo mô hình nay) thì những cây bút về lý luận mới xuất hiện. Và thế nào là lý luận? thế nào là nhà lý luận? Vấn  đề này ngoài tầm hiểu biết của tôi, vậy xin "đá quả bóng" về phía những người được đào tạo chuyên ngành lý luận tại các học viện, nhạc viện, câu trả lời sẽ được ngọn ngành, chính xác và có tính thuyết phục hơn.

         4. Riêng về lĩnh vực phê bình, giới chuyên môn, chuyên nghiệp thường coi phê bình là kẻ đồng hành của sáng tác. Có tác phẩm là có phê bình, và đương nhiên sáng tác thì khó mà phê bình thì dễ. Do quan niệm như vậy, dễ dẫn đến một thái độ miệt thị đối với người làm công tác này. Họ chỉ được đánh giá như kẻ cầm ô che lọng, hay thái giám phục vụ cho những "ông lớn" sáng tác mà thôi. Bên văn học, Chế Lan Viên là nhà thơ nổi tiếng, đồng thời ông cũng là một nhà phê bình có hạng, từng nói: đào tạo một nhà văn thì cần dăm năm, cong đào tạo nhà phê bình thì cần dăm tháng. Cánh nghĩ này cũng là hiện trạng phổ biến trong giới âm nhạc Việt Nam. Và như vậy, nếu xếp tầng bậc từ cao xống thấp, từ oai nhiều đến ít oai sẽ là: Sáng tác - lý luận - phê bình.

         Thực ra lý luận hay phê bình âm nhạc đều đi chung một con đường, tiến về hai hướng khác nhau, phê bình dựa trên những hệ lý thuyết đã có hoặc đang thiết lập để hướng về thực tại; và lý luận có chiều hướng hồi cố quá khứ. Theo đó, phê bình âm nhạc thể hiện rõ nhất bản ngã cá nhân; lý luận thì bản ngã cá nhân biểu lộ phải thông qua tập thể. Tất nhiên, suy cho cùng, dù là phê bình hay lý luận cái đích đến vẫn phải tìm ra hoặc thiết lập một hệ thống giá trị thẩm mỹ của cái đẹp trong âm nhạc.

         5. Như trình bày ở trên, dẫu biên giới giữa phê bình - lý luận là mong manh hay lờ mờ thì vẫn cố gắng, bằng mọi cách để nhận diện nó. Cho khách quan hơn, tôi xin mượn cái nhìn từ loại hình nghệ thuật văn học rồi "áp đặt" vào nghệ thuật âm nhạc, may ra có thể nhìn thấy "ánh sáng le lói cuối đường hầm".

         Trong cuốn Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy[4], Đỗ Lai Thúy chia phê bình thành: phê bình báo chí và phê bình học thuật. Cách chia này là ông muốn chuyển trọng tâm khảo sát sang bản thân sự phê bình, và không hề có ý phân chia cao thấp trong cách phân loại (lý do chưa tìm được thuật ngữ thích hợp). Ông cho rằng, phê bình báo chí thuộc về phê bình giá trị chứ không phê bình sự thật. Đội ngũ phê bình thường do những người phụ trách chuyên mục văn nghệ trên các báo, hoặc các nhà sáng tác thuận tay trái, hay các nhà phê bình tài tử, váng lai... Phương pháp phê bình của họ chủ yếu dựa vào cảm nhận trực giác, hoặc nhận xét theo giá trị thẩm mỹ hiện hành. Nhiệm vụ của họ là cung cấp món ăn sốt dẻo, tức thì cho công chúng. Vì vậy mà phê bình báo chí không đi sâu vào tác phẩm; không có nhiệm vụ tìm kiếm và lý giải nguồn gốc của cái đẹp và lý giải tại sao lại đẹp. Phê bình báo chí thường bị chi phối bởi nhiều tôn chỉ mục đích khác nhau, nên đôi khi là thế này nhưng buộc phải nói thế kia. Do đó, loại phê bình này dễ biến thành quảng cáo kể cả "vô tư" cho ban bè lẫn "chí công" cho bộ máy quyền lực.

         Loại thứ 2 là phê bình học thuật. Loại này có hai dạng: phê bình lý thuyết và phê bình thực hành. Người phê bình báo chí có thể biết hoặc không biết các lý thuyết chuyên ngành cũng không sao, nhưng người phê bình học thuật nhất thiết phải biết điều đó. Để hành nghề phê bình học thuật, không chỉ dựa vào năng khiếu trời cho, mà phải học tập, đào tạo, tự đào tạo thành nhà chuyên môn giỏi. Có như thế, khi đứng trước một hiên tượng mới, nhà phê bình luôn cảm thấy giới hạn của hệ thống lý thuyết cũ, nên buộc anh ta vừa phải sự dụng hệ lý thuyết cũ, vừa phải tìm ra những nguyên lý mới để xây dụng hệ lý thuyết mới.

         Nhìn sang lĩnh vực âm nhạc nước nhà, có lẽ phê bình học thuật như cách chia trên, theo thiển ý của tôi, đó chính là lý luận. Để đạt được mẫu hình ấy, trong khi đời sống âm nhạc nước nhà đang bề bộn như hiện nay, quả là một điều khó. Và, khi tiếp cận với tác phẩm, tác giả, hoặc những hiện tượng khác trong âm nhạc, dù anh là nhà nghiên cứu, nhà lý luận, hay nhà phê bình, thì hãy tìm ra một hướng đi cho phù hợp. Đừng bao giờ lấy nguyên lý cũ để trang trí hoặc bóp chết tác phẩm mới, và cũng đừng biến hệ thống lý thuyết đúng cho một trường hợp thành hệ thống lý thuyết cho nhiều trường hợp. Chỉ khi làm được điều đó, anh sẽ xứng là "nhà" do những người trong giới và công chúng phong tặng, chứ không phải là hình thức tự phong, tự nhận, tự sướng như nhiều người hiện nay.


 

 



[1] Nguyễn Lương Ngọc, Lê Khả Kế, Từ điển học sinh, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971.

 

[2] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1997

[3] Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lâm, Từ điển tiếng Việt, Xí nghiệp in Đồng Tháp, 1998

[4] Đỗ Lai Thúy, Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy tư tửng phê bình văn học Việt Nam một cái nhìn lịch sử, Công ty Văn hóa & tryền thông Nhã Nam - Hội nhà Văn xb, Hà Nội, 2011, tr.39-50.